[Ngữ Văn 9] Top 3 bài mẫu phân tích Cảnh ngày xuân – Truyện Kiều kèm Dàn ý chi tiết hay nhất 2023

Phân tích Cảnh ngày xuân là một trong những đề bài thú vị trong chương trình Ngữ văn lớp 9. Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn trích đặc sắc của tác phẩm Truyện Kiều – Nguyễn Du và đây cũng là một đoạn trích cần lưu ý trong chương trình. Cùng Công thức Toán Lý Hóa tham khảo bài phân tích Cảnh ngày xuân này cũng như dàn ý chi tiết nhé.

Dàn ý chi tiết phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân

I. Mở bài: giới thiệu đoạn trích Cảnh ngày xuân

Ví dụ: Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện thân phận khổ cực và hẩm hiu của con người và đặc biệt là của người phụ nữ. Tấm lòng nhân đạo của ông đã được thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ và sâu sắc nhất được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm nói về một nhân vật có tài sắc vẹn toàn tuy nhiên vì chữ hiếu đã hi sinh chính mình.trong tác phẩm có một đoạn trích giới thiệu cảnh rất mộng mơ và hữu tình đó là đoạn trích Cảnh ngày xuân.

II. Thân bài: Bình giảng đoạn trích Cảnh ngày xuân

1. Vị trí đoạn trích:

  • Cảnh ngày xuân nằm ở phần mở đầu của tác phẩm Truyện Kiều
  • Đoạn trích đề cập về cảnh thiên nhiên vào mùa xuân

2. khung cảnh ngày xuân:

  • Hình ảnh con én, tác giả vừa gợi tả mùa xuân đến, vừa nói là thời gian trôi qua nhanh
  • những hình ảnh có xanh, hoa trắng thì bức tranh mùa xuân hiện lên rất diễm lệ và tươi đẹp
  • khung cảnh thoáng đạt, cảnh mùa xuân hiện ra rất đẹp đẽ và thơ mộng

3. Cảnh lễ hội trong tết thanh minh:

  • Không khí rất rộn rã, náo nhiệt
  • Mọi người ai cũng hưng phấn, phấn khởi
  • Tâm trạng nô nức

– thu hút lên hình ảnh tết truyền thống, đông đúc, náo nhiệt và vui tươi

4. Cảnh chị em Kiều chơi xuân trở về:

  • Cảnh vật nhạt dần, bớt ồn ào náo nhiệt và đẹp đẽ
  • con người càng thưa thớt hẳn
  • Linh cảm cho một sự việc xấu sẽ xảy ra với gia đình kiều

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về đoạn trích cảnh ngày xuân

Ví dụ: Cảnh ngày xuân là một đoạn trích miêu tả cảnh ngày xuân vô cùng đẹp mắt và náo nhiệt, nhưng đoạn trích cũng báo trước phía sau còn nhiều điều thú vị và bi kịch với gia đình Thúy Kiều.

Bài mẫu phân tích Cảnh ngày xuân chi tiết, hay nhất

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân chuẩn Bộ GD

Nguyễn Du sinh năm 1820, là một người con của làng quê Tiên Điền, Hà Tĩnh. Vốn là con của một gia đình có truyền thống văn học qua bao đời nên Nguyễn Du được thừa hưởng năng lực văn học từ gia đình cùng với tấm lòng gắn bó, yêu thương với chúng ta đã Đem lại sắc màu nhân đạo đặc sắc trong thơ Nguyễn Du.

Sống trong thời kỳ xã hội loạn lạc, từng đến nhiều nơi và có kinh nghiệm gắn bó với cuộc sống của người dân nên ông hiểu hơn ai hết những vất vả, khổ cực mà những người dân phải gánh chịu, vì lẽ đó là lòng ông luôn hướng về những người khốn khổ, thương cảm và dành họ họ sự yêu thương, thông cảm sâu sắc.

Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du viết về cuộc đời và số phận của người con gái tài hoa bạc mệnh Thúy Kiều, không những xuất sắc trong việc khắc họa chân dung, số phận của nàng Kiều mà Nguyễn Du còn có tài năng miêu tả thiên nhiên bậc thầy, ta có thể thấy rõ việc này qua đoạn trích Cảnh ngày xuân.

Không chỉ thắng trong việc khắc hoạ nhân vật, Nguyễn Du còn mang lại cho ta những câu thơ viết về thiên nhiên đầy gợi cảm, đẹp mắt và êm đềm. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn trích mô tả cảnh thiên nhiên hay và linh hoạt nhất của tác phẩm. “Cảnh ngày xuân” nằm sau đoạn mô tả chị em Thúy Kiều, được mở bài bằng bốn câu thơ linh hoạt giới thiệu cảnh xuân:

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Nếu hè đến có phượng thắm ve kêu, đông sang có tuyết rơi, bàng trơ trọi lá thì khi xuân về có cánh én chao nghiêng. Chim én chính là đại diện của mùa xuân, đại diện của đất trời ngày xuân. Lúc này đây, trời những áng mây trời xanh thẳm, có “thiều quang” – bầu ánh sáng diệu kỳ, đẹp tươi và yên bình, có cánh én bay lượn giữa khung cảnh. Thời gian là thứ chưa bao giờ chờ đợi ai, mới ngày đầu năm mới đấy mà đã bước sang những ngày tháng ba “đã ngoài sáu mươi”. Đẹp đến thế không gian đầy bình yên và lung linh của mùa xuân khi tháng ba về:

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Những bãi cỏ non xanh kéo dài như những thảm, xa tít “chân trời” mở ra một môi trường rộng rãi, màu xanh mang sức sống mới, mang cả niềm hy vọng của sự an bình, của may mắn và niềm thương. nếu như trên mây trời có bóng dáng những nàng chim én yêu kiều thì dưới chân trời có những thảm cỏ xanh tươi, bát ngát. Và còn đây nữa cánh hoa lê trắng tinh khôi, được điểm xuyết tự nhiên mà hài hoà nên nền xanh của lá, sắc trắng hoa lê mang nét gợi cảm đầy thu hútnổi bật.

Trong thơ cổ Trung Quốc cũng có những câu thơ miêu tả xuân tiết tháng ba bằng những câu thơ rất hay:

“Phương thảo niên bích
Lê thông số điểm hoa”

Nguyễn Du trong tác phẩm này cũng đã vận dụng một cách sáng tạo để viết về nét xuân của dân tộc, nét xuân của đất nước ta, thiên nhiên mang cả hồn đất Việt. nếu câu thơ cổ gợi xuân bằng hương vị, đường nét, trong thơ Nguyễn Du không những có màu sắc, đường nét và còn thấy cả cái nhịp vận động khẽ khàng nhưng đầy tinh tế của những cánh hoa lê qua nghệ thuật đảo ngữ, đẩy “trắng” lên trước từ “điểm”, làm cho hoa lê như đang bừng nở trong không khí mùa xuân . có thể thấy, chỉ bốn câu thơ đầu ấy thôi, mà Nguyễn Du đã vẽ nên một bức hoạ , vừa khoáng đạt, thanh bình lại vừa sinh động, tươi vui. Dường như, lòng người cũng đang thư thái hạnh phúc xốn xang tận hưởng thứ thiên nhiên tuyệt diệu lúc này.

Mùa xuân là mùa của niềm vui sum họp, của những cuộc dạo chơi, những lễ hội vui tươi. Ở Việt Nam, vào tiết tháng ba âm lịch, có lễ hội đạp thanh, tảo mộ truyền thống. Nguyễn Du cũng đã tái hiện lại không gian của lễ hội này qua những câu thơ:

“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thành”

Bài văn phân tích Cảnh ngày xuân đặc sắc trong Ngữ Văn lớp 9

Hội đạp thanh là nơi xảy ra cuộc du xuân của mọi người, đặc biệt là những đối phương trai, cô gái đang độ xuân thì, đó là những ngày vui mà người ta háo hức chờ đợi nhất. Lễ tảo mộ là dịp mà mọi người trong gia đình trở về, cùng nhau ra dọn dẹp mộ ông bà, thắp lên những ngôi mộ nén hương để tưởng nhớ những người quá cố như một sự biết ơn, tri ân sâu sắc. Nguyễn Du bằng sự cảm nhận tinh tế, đã tái hiện lại không gian lễ hội này qua những câu thơ tiếp:

” Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”

Nghệ thuật ngôn từ được dùng một cách tài tình qua sự kết hợp bộ máy các tính từ láy và danh từ ghép để vẽ nên không gian đi hội thật vui tươi, phấn chấn, háo hức. ” Chị em” ai cũng sắm sửa cho mình những bộ cánh áo thật đẹp để dự hội, gần xa nô nức những” giai nhân, tài tử ” nắm lấy tay nhau đi chơi, rủ nhau hò hẹn, trên đường là những “ngựa xe” đông đúc, trên những quần áo lộng lẫy, họ ríu rít như những đàn chim bay về nơi vui chơi tụ họp. Và đâu đây, ta thấy có bóng hình chị em nàng Kiều tuyệt sắc trong đó, họ cũng đang hoà mình trong niềm vui, sức sống của tuổi trẻ, của những lung linh thanh xuân lúc này. Sau phần hội vui chơi là đến phần lễ đầy thiêng liêng, long trọng:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Đứng trước linh hồn của những người đã khuất, lòng người cũng không khỏi buồn thương, nhung nhớ, những ” ngổn ngang” sâu thẳm tâm hồn. Nhịp thơ chầm chậm buồn như để bày tỏ sự chia sẻ, nỗi niềm của người nơi chốn trần gian vẫn luôn cầu nguyện, mong những điều an ổn nhất gửi đến tổ tiên mình.

Rồi cuộc vui nào cũng đến lúc phải kết thúc, cuộc gặp gỡ nào cũng có lúc chia xa, mời vừa sớm bình minh còn vui chơi, cười nói thì giờ cũng đã thấm thoắt chiều tà, mọi người phải ra về trong niềm tiếc nuối, nỗi bâng khuâng:

“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Khi ánh chiều buông cũng là lúc lòng người nhiều những tâm trạng ưu tư. nếu không gian xuân ở những câu đầu được mở rộng, khoáng đạt thì lúc này đây, khung cảnh dường như bị thu hẹp hơn, cảnh êm đềm có chút buồn vương nhè nhẹ. Chị em Kiều lòng “thơ thẩn” dắt nhau về mà lòng còn tiếc nuối cuộc vui. Cảnh xuân khi chiều xuống nhẹ nhàng, yên ả nhưng không vui tươi và sinh động như trước. Những từ láy “nhỏ nhỏ” , ” hanh thanh” ,”nao nao” lại càng gợi cảm xúc xuyến xao, lưu luyến. Trong đoạn cuối này, tác giả đã sử dụng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” đầy độc đáo, cảnh mang màu của tâm trạng, gợi tâm trạng của người về lúc bấy giờ.

Thơ hay không chỉ đẹp thôi đâu mà nó còn có tình trong số đó. Thơ hay đâu chỉ nói lên giấc mộng, nỗi lòng người thi sĩ mà còn nói lên khát khao, mong ước của những người thưởng thức. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã cho ta biết một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và tài năng xuất chúng của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Bài mẫu phân tích Cảnh ngày Xuân chi tiết

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc nước ta. Tên tuổi của nhà thơ không chỉ nổi tiếng nội địa mà còn vang xa trên thi đàn thế giớisở dĩ việc tác giả có được niềm vinh quang đó là do ông đã làm nên sự nghiệp sáng tác thành quảtrong số đó tuyệt vời nhất là Truyện Kiều – tác phẩm khổng lồ nhất của nền văn học nước ta. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, chúng ta càng cảm phục bút pháp mô tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả:

“Ngày xuân con én đưa thoi,
………
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.

Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của “Truyện Kiều”. Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ có cấu tạo theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là không gian mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống.

mở bài, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật độc đáokhông gian, thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:

“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.

Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn rã bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian “Thời giờ thấm thoắt thoi đưa / Hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm”. Xung quanh tràn đầy “ánh thiều quang” – ánh sáng tươi đẹp – đang rọi chiếu lên toàn cảnh vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, không nóng bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. giai đoạn đầu năm trôi qua thật nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa mô tả cảnh thiên nhiên tươi sáng cùng lúc đó thể hiện niềm tiếc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một năm sắp hết.

Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:

“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một số bông hoa”.

Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang lại “tận chân trời” là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh linh hoạt ấy được điểm xuyết một số bông hoa lê trắng. Đây là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ “trắng” liên kết với động từ “điểm” đã thể hiện ra được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm xuất sắc đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa sử dụng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử trong bài “Mùa xuân chín” cũng đã ít nhiều liên quan Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xuân:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thiếu nữ hát trên đồi”.

Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ không gian mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt tay vào làm tập trung khắc họa các hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du – chị em Thúy Kiều – đang thong thả chơi xuân:

“Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”.

Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau “lễ tảo mộ” là đến “hội đạp thanh”, khách du xuân giẫm lên cỏ xanh – một hình ảnh thân thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ “lễ là”, “hội là” gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui nối tiếp niềm vui.

Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:

“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước quần áo như nêm”.

Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cách báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong, mong đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối “tài tử”/”giai nhân”, “ngựa xe như nước”/”áo quần như nêm” đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng toàn bộ niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái “đến tuổi cập kê” trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đấy mà ra. toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đấy tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc “như nêm” trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, lịch thiệp và phong lưu.

Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc đất nước ta nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không những là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu chúng ta trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.

Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm thông cảm sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: có khả năng hôm nay, sau hơn hai trăm năm, suy nghĩ của bạn có ít nhiều thay đổi trước cảnh: “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” thế nhưng thành quả nhân đạo được gởi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc động.

“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, tuy nhiên bây giờ là giây phút cuối ngày:

“Tà tà bóng ngả về tây,
…………
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.

Nếu câu thơ mở đầu của “Cảnh ngày xuân” chan hòa ánh sáng “thiều quang” thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt tay vào làm nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ biến mất cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật bởi vậy mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên “thơ thẩn” và đến đây chính là “bước dần”, chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nho nhỏ”, “nao nao” góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được mô tả bằng bút phá ước lệ cổ điển tuy nhiên vẫn gợi cho người coi cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương nước ta.

Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ “nao nao” (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan rộng trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp xếp để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự đoán, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.

Nhà thơ, ngôn ngữ như chạm khắc, như thoát khỏi khuôn khổ trói buộc của công thức, ước lệ để làm sống lại bức tranh xuân và tâm trạng chúng ta. Cả khung cảnh nhất định xuân thơ mộngtràn ngập ấy như hiện ra trước mắt. Ta bỗng nhớ đến những ngày ngây thơ, trong sáng của kiều rồi ngẫm lại chẵng đường trôi dạt mười lăm năm của người phụ nữ tài sắc ấy mà cảm thương cho số phận một con người. Bỗng nhớ tới lời thơ của Chế Lan Viên đến nao lòng:

“Ta yêu những Hịch, những Bình Ngô gọi lòng ra hỏa tuyến,
tuy nhiên không thể quên ngọn lau trắng bên đường Kiều thôi lại tự xa xưa.”

Tổng kết

Trên đây là top 3 bài phân tích Cảnh ngày xuân đặc sắc nhất mà congthuctoanlyhoa.com muốn gửi đến các bạn học sinh. Mong rằng bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu hơn về đoạn trích này cũng như làm được những bài phân tích hay nhất khi ở lớp.

Viết một bình luận